• This is Slide 1 Title

    This is slide 1 description. Go to Edit HTML and replace these sentences with your own words.

  • This is Slide 2 Title

    This is slide 2 description. Go to Edit HTML and replace these sentences with your own words.

  • This is Slide 3 Title

    This is slide 3 description. Go to Edit HTML and replace these sentences with your own words.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Điều trị bệnh vẩy nến

Nam gặp nhiều hơn nữ, người to nhiều hơn trẻ em.

Bệnh phát thành từng đợt, có khi nâng cao giảm theo mùa, có hiện tượng trên vùng đầu và các đầu móng tay, móng chân. Bệnh lành tính, thường không ảnh hưởng tới sức khỏe nhưng ảnh hưởng tới thẩm mỹ, tâm lý và những hệ lụy của nó.

Một dạng rối loạn tự miễn

Nguyên nhân của bệnh vẩy nến không rõ ràng. Tuy nhiên, theo một số y văn, vẩy nến là do một thành phần di truyền cơ bản nào đó, khi bị kích hoạt sẽ làm cho hệ thống miễn dịch sản xuất 1 số lượng quá nhiều tế bào da. Như vậy, hiện tượng này được gọi là một rối loạn da tự miễn dịch. Hiện nay chưa có cách chữa khỏi hoàn toàn căn bệnh này mà không tái phát bệnh. Vẩy nến là do rối loạn biệt hóa lành tính của tế bào thượng bì.

Điều trị bệnh vẩy nến

Đa số các tác kém chất lượng cho rằng vẩy nến là 1 bệnh rối loạn miễn dịch có nhân tố di truyền:

- Bệnh nhân có tiền sử gia đình có người mắc bệnh vẩy nến.

- Có sự mất cân bằng 1 số gen HLA trong bệnh vẩy nến.

Các yếu tố môi trường đóng vai trò cần yếu làm khởi phát bệnh vẩy nến:

Nhiễm khuẩn: vẩy nến ở trẻ em, vẩy nến thể giọt người ta phân ra được liên cầu khuẩn ở tổn thương và điều trị kháng sinh thì bệnh thuyên giảm.

Stress: làm bệnh tái phát hoặc đột ngột nặng lên.

Thuốc: bệnh vẩy nến có hiện tượng sau khi dùng 1 số thuốc: chẹn beta kéo dài, nhất là sau lúc sử dụng corticoid.

- Chấn thương: thương tổn có hiện tượng sau các kích thích cơ học (gãi, chà xát) hoặc các kích thích lý hóa (bệnh nặng nhẹ theo mùa).

- Các yếu tố ảnh hưởng tới bệnh vẩy nến:

- Béo phì: những người béo phì có xu hướng bị các thể vẩy nến nặng, với diện tích tổn thương trên 20% diện tích cơ thể, nhưng không có vai trò trong khởi phát bệnh.

- Hút thuốc lá: trên 20 điếu mỗi ngày có nguy cơ bị vẩy nến nặng nâng cao gấp 2 lần và có thể đóng vai trò nhất định

- Nhiễm HIV: không làm tăng nguy cơ bị bệnh vẩy nến, nhưng bệnh nhân HIV thường bị các thể vẩy nến nặng hơn.

Bệnh vẩy nến là tình trạng viêm da mạn tính do nhiều yếu tố tác động lên cơ chế bệnh sinh bao gồm yếu tố về gen (HLA Cw6, PSORS1-9), các nhân tố kích hoạt (vi khuẩn, virút, thuốc, stress…), hệ miễn dịch với vai trò của lympho T, các cytokine… gây ra tình trạng quá sản và rối loạn phát triển của tế bào sừng. Bệnh ít khi gây tử vong nhưng ảnh hưởng nặng nề tới tâm lý, khả năng sinh hoạt, lao động của người bệnh. Gần đây, với việc tìm ra nhiều nhân tố liên quan đến cơ chế sinh bệnh vẩy nến, đặc biệt vai trò nhu yếu của hệ miễn dịch với sự tham gia của tế bào lympho T đã tìm ra một hướng mới trong điều trị vảy nến, đó là các chất sinh học có tác dụng cắt đứt tương tác tế bào lympho T và các thành phần liên quan khác.

Thương tổn da do vẩy nến: dát, mảng đỏ, với đặc điểm:

- Ấn kính mất màu.

- Ranh giới rõ với da lành.

- Có vẩy trắng khô, dễ bong.

- Vị trí: toàn thân, bình thường khu trú ở khủy tay, đầu gối, rìa chân tốc.

- Sang thương mang tính chất đối xứng.

- Nghiệm pháp: Brocque (+).

Thương tổn móng: gặp khoảng 30% bệnh nhân vẩy nến.

- Móng ngả màu vàng.

- Dày.

- Có các chấm lỗ rỗ trên bề mặt.

Điều trị bệnh vẩy nến

Xuyên tiêu

Chứng ngứa sẩn tại da

Khái niệm bệnh vẩy nến được y học cổ truyền mô tả rất sớm, cùng ra đời với những bệnh danh: Ngân Tiêu Bệnh, Tùng Bì Tiễn, Bạch Chủy, Chủy Phong, Bạch Xác Sang, Tùng Hoa Tiễn. Nghĩa là chứng ngứa, sần tại da. Theo y lý cổ truyền là bệnh mạn tính, tái phát liên tục, đa phần phát sinh ở tứ chi, mặt bên đùi, đầu gối, cẳng chân, mặt ngoài tay, hông và vùng đầu. Tổn thương cốt yếu là những sần cộm kiểu đốm, đám hoặc mảng, đỏ hoặc trắng mốc như sáp nến và ngứa.

Do ngoại tà khách tại bì phu: lục dâm (phong, hàn, nhiệt, thấp, thử, táo) xâm nhập vào phần cơ, phu làm cho khí của Phế vệ không được tuyên thông, làm cho kinh lạc bị ngăn trở, ứ đọng lại ở da (phu tấu), không nuôi dưỡng được da gây nên. Sách Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận viết: “Tấu lý hư yếu, phong và khí xâm nhập vào, huyết ứ lại không nuôi dưỡng được cơ nhục gây nên bệnh”.

Do tình chín nội thương: thất tình bị ức chế, uất kết lâu ngày hóa thành hoả, hoả nhiệt hoá thành độc tà vào phần doanh huyết, bên ngoài ảnh hưởng tới phu tấu (da), lỗ chân lông bị bít lại không thông, khí trệ huyết ứ gây nên bệnh.

Do trúng độc: ăn nhiều thức ăn cay, nóng, tanh, tươi sống, trứng … khiến cho phong bị động, Tỳ Vị không điều hòa, khí trệ không thông, thấp nhiều cùng kết lại, thấm về tấu lý, không may gặp phải hàn thấp, khí huyết tương bác nhau gây nên bệnh.

Do mạch Xung và Nhâm không điều hòa: mạch Xung và Nhâm liên lạc với tạng Can và Thận, vì vậy kinh nguyệt và sinh dục là yếu tố làm cho mạch Xung và Nhâm không điều hòa, khiến cho âm dương của Can Thận thiên lệch gây nên, biểu hiện bằng âm hư nội nhiệt hoặc do dương hư ngoại hàn, lâu ngày làm cho âm dương đều hư hoặc chân hàn chất lượng kém nhiệt hoặc chân nhiệt kém chất lượng hàn.

Điều trị vẩy nến theo y học cổ truyền

Điều trị tại chỗ:

- Giai đoạn phát triển: bôi ngoài nhũ cao lưu hoàng 5%.

- Giai đoạn ổn định: bôi ngoài cao mềm lưu hoàng 10%, cao mềm hùng hoàng ngày 2 - 3 lần.

- Thuốc ngâm rửa: khô phàn 120g, cúc hoa dại 240g, xuyên tiêu 120g, mang tiêu 500g, sắc nước tắm mỗi ngày hoặc cách nhật, dùng cho trường hợp bệnh tổn thương rộng.

Điều trị toàn thân:

Thể phong hàn:

- Nhiều vết chấm xuất hiện giống như đồng tiền hoặc từng mảng mầu hồng, trên mặt mụn có thể thối nát.

- Phát bệnh quanh năm. Từ mùa đông tới mùa hè thường tự bớt hoặc giảm ẩn đi.

- Lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch phù khẩn.

Pháp trị: sơ phong, tán hàn, hoạt huyết, điều doanh.

Dùng bài Tứ vật ma hoàng thang gia giảm (Bì phu bệnh Trung y chẩn liệu học).

- Ma hoàng 12g, quế chi 15g, đương quy 12g, bạch thược 12g, sinh địa 12g, sa sâm 12g.

Điều trị bệnh vẩy nếnMa hoàng

Sắc uống.

Thể huyết ứ:

Vết ban màu đỏ tối hoặc tím, to nhỏ không đều, bề mặt hơi lõm, khô trắng đục, không bong da.

Có một chút vết ban nhỏ mới có hiện tượng kèm theo ngứa hoặc không ngứa, miệng khô, không muốn uống.

Lưỡi đỏ tối hoặc có điểm ứ huyết.

Rêu lưỡi trắng nhạt hoặc hơi vàng.

Mạch huyền sáp hoặc trầm sáp.

Điều trị: hoạt huyết hóa ứ, thông lạc.

Dùng bài Hoàng kỳ đan sâm thang gia giảm (Bì phu bệnh Trung y chẩn liệu học):

Đan sâm 12g, trạch lan 12g, tây thảo 12g, kê huyết đằng 15g, hoàng kỳ 12g, hương phụ 8g, thanh bì 8g, trần bì 10g, xích thược 12g, tam lăng 12g, nga truật 12g, thỏ ty tử 6g.

Sắc uống.

Ngoài ra, người bệnh cần chú ý loại trừ yếu tố nghi ngờ là nguyên nhân gây bệnh: Nếu là bệnh mạn tính, Quan tâm tinh thần thoải mái, tránh mọi kích cảm có thể xảy ra; tránh dùng các loại thuốc có tính kích thích chỉ mất khoảng bệnh phát triển; tránh uống rượu, các loại nước ngọt, trà đậm, cà phê, thuốc lá, không ăn các chất cay nóng, mỡ heo, giảm thiểu ăn các loại chiên xào.

BS. NGÔ HỒNG HẢI ĐĂNG

Dược thiện trị viêm mũi xoang mạn tính ở trẻ

Người bệnh có biểu hiện: ngạt mũi, mũi chảy dịch nhày - mủ (nước mũi đặc hơi xanh) kéo dài, hay tái phát. Nếu chất dịch này nuốt xuống đường tiêu hóa hoặc hít phải sẽ gây viêm phế quản tái diễn, viêm dạ dày ruột non, ho từng cơn…, chảy ra ngoài lỗ mũi thành vệt viêm. Y học cổ truyền gọi viêm xoang mũi mạn tính tại trẻ em là cam mũi hoặc tỵ cam, là hiện tượng lỗ mũi chảy nước đặc liên tục, màu xanh vàng, hai lỗ mũi đỏ kèm theo mắt nhíp, người gầy yếu. Bệnh gặp chính yếu ở mũi xoang, ít có triệu chứng toàn thân.

Nguyên nhân bệnh do thấp nhiệt hiệp với phong tà nhập về tỳ phế làm ảnh hưởng trực tiếp đến phế lạc và tỵ khổng gây ra. Người bệnh chảy nước mũi đặc liên tục, màu xanh vàng, hơi tanh, hai lỗ mũi đỏ kèm theo mắt nhíp, người gầy yếu, ăn uống kém tiêu hoặc tiêu lỏng, phân thường sống, mình nóng, hay ra mồ hôi trộm, mạch tế sác. Phép trị là bổ tỳ phế, thông lạc, thanh hư nhiệt, trừ thấp. Dùng 1 trong các bài thuốc:

Bài 1: Lục thần tán gia giảm: nhâm sâm 6g, bạch truật 8g, phục linh 8g, cam thảo (chích) 4g, biển đậu 6g, hoàng kỳ 6g, hoàng cầm 5g, hạnh nhân 5g, bối mẫu 6g, liên kiều 5g, gừng tươi 3 lát, đại táo 3 quả. Sắc uống.

Bài 2:nhân sâm 4g, bạch truật 8g, phục linh 8g, cam thảo (chích) 4g, biển đậu 6g, hoàng kỳ 6g, sinh địa 8g, huyền sâm 6g, đan bì 6g, mạch môn 6g, kim ngân 8g, ké đầu ngựa 8g, tân di 4g hoàng cầm 6g. Sắc uống.

Bài 3: Ích khí tổng minh thang gia giảm: hoàng kỳ 10g, nhân sâm 10g, cát cánh 6g, mạn kinh tử 6g, bạch thược 5g, hoàng liên 3g, cam thảo 3g, thăng ma 5g, thạch xương bồ 5g, liên kiều 5g, la bạc tử 5g, bối mẫu 4g, hoàng cầm 5g. Sắc uống. Chữa chảy nước mũi đặc nhiều không dừng, nước mũi màu vàng đặc hoặc lẫn màu xanh.

Bài 4: tang diệp 24g, thương nhĩ tử 10g, tân di 3g, lô căn 24g, cát cánh 10g, cam thảo 3g. Sắc uống. Chữa viêm hốc mũi mạn tính.

Thuốc dùng tại chỗ:

Lông nhím (thiêu tồn tính) 2 phần, bạch phàn 1 phần. Tán thành bột mịn. Dùng nước muối sinh lý rửa sạch lỗ mũi. Dùng tăm bông thấm thuốc bôi sâu trong 2 lỗ mũi. Ngày 1 lần, cách 2 ngày sử dụng thuốc 1 lần.

Điều dưỡng và dự phòng: Vệ sinh mũi hàng ngày, không sử dụng tay bẩn ngoáy lỗ mũi. Nên ăn các chất dễ tiêu hóa, đủ dinh dưỡng.

Lương y Thảo Nguyên

Dưỡng sinh giấc ngủ

Mời bạn đọc cùng tham khảo bài viết dưới đây để có giấc ngủ ngon không chỉ phục hồi sức khỏe mà còn có tác dụng nhất định trong việc bộ phận và chữa bệnh.

Trang bị phải đúng cách: Giường phải có độ cứng thích hợp, nếu như cứng quá thì khó có giấc ngủ ngon, lúc ngủ dậy toàn thân sẽ đau nhức, đặc biệt với người có tuổi và mắc bệnh về xương khớp. Nếu giường quá mềm lại dễ làm cho xương sống tại trạng thái cong, cơ quan nội tạng dễ bị chèn ép hoặc bị kéo căng ra nên giấc ngủ sẽ không sâu. Giường ngủ phải kê theo hướng Nam Bắc, khi ngủ đầu hướng vào phía Bắc, chân hướng về phía Nam mới không phải chịu ảnh hưởng của địa từ. Gối ngủ cũng phải có độ mềm và chiều cao phù hợp, tốt nhất là dày chừng 10cm. Để có một giấc ngủ tốt, chăn gối phải đảm bảo vệ sinh sạch sẽ, thơm tho.

Tư thế ngủ phù hợp: Tư thế ngủ hợp sinh lý đặc biệt nằm nghiêng vào bên phải, thân thể co tự nhiên. Tuy nhiên, cũng cần chọn lựa tư thế ngủ tùy theo bệnh lý, ví như người bị bệnh tim nên nằm nghiêng bên phải là tốt nhất để tránh tim bị ép xuống. Người bị tăng huyết áp nên gối cao vừa phải để tránh bị đau phần ngực. Người bị bệnh phổi ngoài việc gối cao vừa phải còn cần liên tục trảo đổi tư thế nằm sao cho có lợi cho việc bài trừ chất đờm. Những người mắc bệnh dạ dày và bệnh gan lúc ngủ tốt nhất nên nằm nghiêng sang bên trái. Người bị đau các khớp nên cải thiện tránh tư thế đè ép gây đau nhiều cho chi thể bị bệnh. Nói tóm lại, chọn lựa tư thế ngủ thích hợp không những có lợi cho việc chữa trị bệnh tật và phục hồi sức khỏe mà còn có tác dụng hỗ trợ cho việc ngủ ngon.Ngủ đủ thời gian và đúng cách giúp phục hồi sức khỏe và phòng, tránh bệnh tật.

Ngủ đủ thời gian và đúng cách giúp phục hồi sức khỏe và phòng, tránh bệnh tật.

Thời gian ngủ đủ:Ngủ phải đủ thời gian, nếu ngủ thiếu sẽ khiến cơ thể mệt mỏi, hiệu quả công việc sẽ suy giảm. Nhưng ngủ quá nhiều cũng làm cho độ linh hoạt của cơ thể kém đi gây ra phản ứng chậm chạp do vỏ đại não bị ức chế chỉ cần khoảng dài. Hai trường Hợp này đều gây cản trở cho công việc hàng ngày, đương nhiên cũng rất có hại cho cơ thể. Phép dưỡng sinh học Đông y cho rằng: “Ngủ như ăn uống, không ăn quá no” và chủ trương “Không nên dậy muộn, không nên ngủ nhiều”. Sinh lý học hiện đại cho rằng, 1 chu trình ngủ tồn tại hai pha là ngủ có giấc mơ và ngủ không có giấc mơ, kéo dài khoảng 90 phút. Các nghiên cứu vào giấc ngủ đã rút ra kết luận: bình quân thời gian ngủ của người trưởng thành trong một ngày là 7,5 giờ, tức là 5 chu kỳ ngủ. Kết quả nghiên cứu thống kê cho thấy, ngủ ít và ngủ nhiều đều ảnh hưởng tới tuổi thọ, những người ngủ trung bình 7-8 giờ/ngày thì tuổi thọ thường cao hơn.

Môi trường ngủ hợp chuẩn: Ngủ ngon hay không có liên quan mật thiết với môi trường ngủ. Để có giấc ngủ ngon, nhiệt độ trong bộ phận cần vừa phải, khoảng 18-200C là rất tốt nhất, đảm bảo yên tĩnh, không có hoặc giảm tiếng ồn tại mức tối thiểu, bộ phận ngủ cần hơi tối, không bị ảnh hưởng bởi bức xạ điện từ, độ ẩm trung bình, có độ thông thoáng phù hợp, nên mở cửa sổ khi ngủ.

ThS. Hoàng Khánh Toàn

Kinh nghiệm dân gian trị zona

Bệnh zona do virut herpes zoster gây ra. Nó cũng chính là tác nhân gây ra bệnh thủy đậu ở trẻ em. Người bệnh có biểu hiện đau rát dọc theo dây thần kinh bị tổn thương. Khoảng hai - 3 ngày xuất hiện vệt đỏ lan toả dọc theo vùng da bị tổn thương, đồng thời có hiện tượng mụn nước kèm theo ngứa, đau nhức, rát, đau đầu.

Vị trí tổn thương thường tại ngực, bụng, lưng, miệng, gáy, mặt, đầu, chân tay… Nếu tổn thương vào dây thần kinh thị giác, dây thần kinh số VII có thể gây mù mắt, liệt mặt, mất vị giác. Ở 1 số bệnh nhân trung hoặc cao tuổi, zona có thể để lại hậu quả nặng nề: gây đau nhức kéo dài nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Kinh nghiệm dân gian chữa zona có rất nhiều, sau đây là 1 số bài thuốc thường dùng:

Bài thuốc uống trong

Nếu nốt zona hồng ban thủy bào rõ, mặt bóng căng, đau rát nhiều, miệng khát, họng khô, bứt rứt, dễ nóng nảy, chất lưỡi đỏ, rêu vàng. Phép chữa: thanh tả can hỏa, lợi thấp giải độc, chỉ thống.

Bệnh zona bả vai.

Dùng bài: Long đởm tả can thang gia giảm: long đởm thảo 8g, hoàng cầm 8g, chi tử 8g, trạch tả 8g, mộc thông 8g, khương hoàng (nghệ vàng) 8g, sa tiền tử 10g, đương quy 10g, sài hồ 8g, cam thảo 4g, sinh địa 12g, đan bì 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

Nếu vùng zona tổn thương đau nhức âm ỉ, sắc ban chẩn không tươi, mụn nước dày, thủy bào lớn, loét chảy nước. Đau rát ngoài da nhẹ hơn, miệng không khát hoặc khát mà không muốn uống nước nên kiện tỳ, trừ thấp, giải độc.

Dùng bài: Vị linh thang gia giảm: thương truật 12g, chi tử 6g, sinh ý dĩ 12g, trạch tả 8g, mộc thông 8g, xích linh 8g, hoạt thạch 12g, hậu phác 8g, bồ công anh 12g, kim ngân 14g, huyền hồ 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

Thuốc dùng ngoài

Bài 1: đậu xanh, gạo nếp nhai đắp về nốt phỏng ngày vài lần (khi nốt chưa vỡ).

Bài 2: ngọn lá khoai lang giã nhuyễn đắp về nốt phỏng ngày 1 lần, ngày hôm sau rửa sạch đắp mới, tiếp cho tới lúc khỏi.

Bài 3: bôi bột thanh đại hoa với nước xoa về nốt zona.

Bài 4: lấy đọt ngọn cây mướp và ít muối giã đắp về nốt zona.

Bài 5: củ bạch chỉ phơi thái lát tán nhỏ hòa nước đắp bôi vào nơi nốt phỏng.

Lương y: Minh Phúc

Học thuyết Thủy hỏa

Xét trăm bệnh gây ra không bệnh nào là không vì hỏa, mà hỏa phát ra không lúc nào là không do hư, vì gốc chứng hư không khi nào là không do thận. Thận bao gồm thận thủy (thận âm) và thận hỏa (thận dương). Thủy là “nguồn” của muôn vật, hỏa là “cha” của muôn loài. Hễ thận nguyên đầy đủ thì mọi thể hiện đều yên và bệnh tật không còn nữa. Cho nên cứu âm, cứu dương mà không tìm chủ của nguồn thủy hỏa, bỏ rơi tạng thủy hỏa, bỏ Lục vị, Bát vị thì không tìm thấy cửa, tất không có lối vào.

Mệnh môn hỏa được ví như ngọn lửa trong đèn kéo quân nó nắm giữ sinh mệnh của con người. Lục phủ ngũ tạng xoay quanh nó.

Sách Y quán ví Mệnh môn với với cái đèn kéo quân như sau: "Nào người lạy, nào người múa, nào người đi, nào người chạy, đều chỉ nhờ một ngọn lửa mà thôi. Lửa mạnh thì chuyển động nhanh, lửa yếu thì chuyển động chậm, lửa tắt thì muôn máy đều im lặng."

Người mắc bệnh là vì thủy hỏa không đều gây ra. Cái gọi là ‘hỏa có dư`, thực sự là ‘chân thủy không đủ`, không nên ‘tả’ hỏa, mà chỉ lo bổ thủy để chế hỏa, tức là chủ yếu lo thủy mạnh để chế ngực hỏa. Trái lại, ví dụ ‘hỏa không đủ` thì làm cho ‘thủy có dư`, lúc đẩy lùi cũng bất tất ‘tả’ thủy, mà chỉ lo bổ hỏa để hóa thủy, tức là lo nâng cao nguồn hỏa để triệt tiêu thủy.

Vận dụng của thuyết Thủy hỏa như nào?

Hải Thượng Lãn Ông đã ứng dụng phép biến phương vào hai phương lục vị và bát vị để tạo ra đến hơn 50 phương pháp không như nhau loại bỏ được phần nhiều loại bệnh tật trong cơ thể. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác có nói: “Tôi kinh nghiệm chữa bệnh đã lâu, biết rằng sự thần diệu của cổ phương không bài nào bằng các bài Lục vị, Bát vị, thật là thuốc thánh để bảo vệ sinh mạng, nếu như mà hiểu sâu được ý nghĩa gặp từng loại bệnh mà suy rộng ra thì càng dùng thấy càng hay, đem chữa bệnh nào mà chẳng được”.

PQA Bồi Bổ Mệnh Môn Thủy được ứng dụng từ bài "Lục Vị" gồm các vị: Thục địa, sơn thù, sơn dược, mẫu đơn, trạch tả, phục linh,...đã được lưu truyền hàng nghìn năm. Cùng với sự nghiên cứu và bí quyết 17 đời của dòng họ Vũ Duy đã gia giảm các vị với bí quyết sao tẩm đã sản xuất thành công sản phẩm PQA Bồi Bổ Mệnh Môn Thủy có tác dụng bồi bổ thận âm, chân âm, giáng hỏa... chuyên sử dụng đẩy lùi các chứng bệnh âm hư sinh nội nhiệt, chân âm suy tổn, tinh khô huyết kém, lưng đau chân nhức, đái ỉa ra máu, tiêu khát, bí đái, hoa mắt, tai ù, khô cổ, đau họng với các chứng thận hư phát sốt, đổ mồ hôi, đổ mồ hôi trộm...

>> XEM CHI TIẾT VỀ SẢN PHẨM<<

Đừng ngần ngại hãy nhấc máy và liên lạc ngay đến tổng đài của Dược phẩm PQA

1800 6845 nếu như bạn đang gặp vấn đề vào sức khỏe. PQA luôn đồng hành cùng bạn.

XEM VIDEO CHIA SẺ CỦA CÁC KHÁCH HÀNG ĐÃ SỬ DỤNG SẢN PHẨM PQA

Số GPQC: 02595/2016/XNQC-ATTP

Sản phẩm này không phải là thuốc, không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh.


Bất ngờ khi bưởi, chanh và ngải cứu có thể chữa thoát vị đĩa đệm

Sự kết hợp hoàn hảo giữa: Bưởi, Chanh và Ngải cứu

Anh Dũng nói thêm “khi Tiến hành bị thoát vị đĩa đệm tôi đã sử dụng một số loại thuốc giảm đau từ bình thường như thuốc kháng viêm cho tới loại đặc trị hơn như thuốc giãn cơ hoặc thậm chí là một số loại thuốc gây nghiện để giảm đau nhưng vẫn cảm thấy vô ích cho đến lúc được một người bạn chia sẻ vào bài thuốc quý này.

Bưởi, Chanh Ngải cứu – Bài thuốc điểm 10 theo YHCT

Tuyệt chiêu từ vỏ bưởi

Vỏ bưởi xuất hiện trong nhiều bài thuốc chữa các bệnh xương khớp, đặc biệt là thoát vị đĩa đệm. Chỉ cần vài ba vật liệu đơn giản với sự “góp sức” của chút vỏ bưởi là đã có thể làm nên một bài thuốc chữa thoát vị đĩa đệm tuyệt vời.

→ Một số lưu ý vào cách chữa thoát vị đĩa đệm bằng thuốc nam để cho hiệu quả tối đa chỉ với 3 loại cây xanh lá

Tác dụng của chanh

Trong quả chanh chứa nhiều enzym, tinh dầu, canxi, chất xơ, kali, vitamin C, vitamin P, limonene, flavonoid polyphenol, axit citric và salvestrol Q40 là những hoạt chất được coi là kháng sinh tự nhiên cho xương khớp có tác dụng:

● Sát trùng, chống viêm và làm dịu nhanh các cơn đau khi dây thần kinh và mạch máu bị chèn ép.

● Cải thiện sức khỏe của hệ xương khớp, bộ phận ngừa bệnh liên quan đến xương như viêm khớp dạng thấp, loãng xương và viêm đa khớp.

● Trong vỏ chanh còn chứa các hợp chất chống oxy hóa và các loại tinh dầu có tác dụng đủ mạnh để chiến đấu với bệnh ung thư.

● Chanh giúp làm mềm khuỷu tay bị khô, giúp giảm căng thẳng, stress, giảm nồng độ cholesterol trong máu và giúp nâng cao cường miễn dịch và hỗ trợ tiêu hóa hoạt động trơn tru.

Sức mạnh của ngải cứu

Ngải cứu hay còn có tên là ngải diệp, đây là 1 loại thực vật ưa ẩm và dễ sống nên rất thích hợp với khí hậu mưa ẩm tại nước ta.

Ngải cứu chữa được rất nhiều bệnh xương khớp( Ảnh minh họa)

Trong ngải cứu chứa nhiều khoáng chất tự nhiên như thuyon, cinelo, dehydrro matricaria este,... có tác dụng giúp giảm đau nhức thần kinh. Đặc biệt, lá của ngải cứu còn chứa khoảng 0,2 đến 0,34% tinh dầu giúp giảm đau nhức cho người bị bệnh thoát vị đĩa đệm, thoái hóa cột sống...

→ Cẩm nang cho người bệnh thoái hóa cột sống từ miếng ăn, giấc ngủ tới cách chữa bằng đủ loại vị thuốc tươi.

Bởi những công dụng hoàn hảo trên, sự kết hợp của Bưởi, Chanh và Ngải cứu sẽ là 1 sự kết hợp hoàn hảo, tạo nên bài thuốc rất thích hợp để đẩy lùi bệnh thoát vị đĩa đệm. Mặt khác, các vị thuốc trên đều là thảo dược tự nhiên, có độ an toàn cao và đều có sẵn trong vườn nhà người Việt nên có thể dùng trong thời gian dài mà không lo tốn kém và ảnh hưởng tới sức khỏe. Chỉ cần kiên trì một chút là được.

Hoàn thiện công thức chữa thoát vị đĩa đệm

Dưới sự hướng dẫn của PGS.BS Nguyễn Trọng Nghĩa (giảng viên đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh) công thức trị bệnh thoát vị đĩa đệm này đã được hoàn chỉnh hơn, người bệnh chỉ cần đem hỗn hợp bưởi, chanh và ngải cứu ngâm với rượu trắng và uống.

PGS.BS Nguyễn Trọng Nghĩa

Theo thời gian, các cơn đau nhức trong cơ thể do bệnh thoát vị đĩa đệm gây nên sẽ nhanh chóng bị đẩy lùi.

Cụ thể cách làm như sau

Chuẩn bị:

- Bưởi: hai quả

- Chanh: 1kg

- Rượu trắng: hai lít

- Đường phèn: 200 g

Cách thực hiện:

● Đem toàn bộ các vật liệu trên đem rửa sạch và để ráo nước

● Tiếp theo cho lên chảo để sao vàng sau đó hạ thổ cho thảo dược nguội bớt đi

● Sau khi các vật liệu đã được sao vàng, hạ thổ thì ngâm chung với hai lít rượu trắng đã chuẩn bị (chú ý có thể thêm rượu trắng để đảm bảo thuốc ngập rượu)

● Ngâm trong vòng một tháng là có thể đem ra dùng được

Cách dùng:

–  Mỗi lần uống chỉ cần uống 1 cốc nhỏ sẽ có giúp giảm nhanh cơn đau nhức tại vùng lưng, đau nhức xương khớp do bệnh thoát vị đĩa đệm gây nên.

– Bên cạnh đó, hãy lấy rượu này để xoa bóp vùng đau nhức cũng sẽ giúp bạn giảm đau rất hiệu quả.

“Theo anh Dũng (Từ sơn- Bắc Ninh) sau lúc sử dụng bài thuốc từ Bưởi, Chanh và Ngải cứu với nguyện vọng giảm những cơn đau do bệnh gây ra. Nhưng sau quá trình kiên trì thực hiện anh khá bất ngờ về những tác dụng mà bài thuốc đem lại. Không những cơn đau giảm hẳn mà tới thời điểm hiện tại anh có thể vận động một cách thoải mái, vui đùa cùng các con và tham gia các hoạt động thể thao trong thôn một cách vô tư”. Anh chia sẻ thêm “ trước đây tôi cũng đã dùng khá nhiều loại thuốc giảm đau nhưng chưa bao giờ chúng cho tôi được cảm giác dễ chịu và cảm thấy hiệu quả như bây giờ, ví dụ mọi người không tin thì có thể áp dụng ngay là sẽ thấy hiệu quả. Đừng nghĩ cứ thuốc đắt đã là hay, là tốt”

Hi vọng với Bưởi, Chanh và Ngải cứu sẽ là bài thuốc mớiđem lại hiệu quả thực sự cho người bệnh.

Với các bệnh nhân đã điều trị nhiều bài thuốc nhưng không đạt hiệu quả, có thể liên lạc trực tiếp với các thầy thuốc có nhiều năm nghiên cứu và điều trị bệnh thoát vị đĩa đệm nói riêng và bệnh cơ xương khớp nói chung theo trung tâm sau:

Trụ sở Miền Bắc: Phòng chẩn trị y học cổ truyền Tâm Minh Đường
Giấy cấp phép sở y tế Hà Nội: 595/SYT-GPHĐ
Địa chỉ: 138 Khương Đình – Thanh Xuân – Hà Nội
Hotline: 0983.34.0246 (BSCK1: Nguyễn Thu Hương)
Máy bàn: 02462.9779.23
Trụ sở Miền Nam: Phòng chẩn trị y học cổ truyền An Dược
Giấy cấp phép sở y tế TP.Hồ Chí Minh: 03876/SYT-GPHĐ
Địa chỉ: 325/19 đường Bạch Đằng – Phường 15 – Quận Bình Thạnh – TP. Hồ Chí Minh
Hotline: 0903. 876.437 (PGS.BS Nguyễn Trọng Nghĩa)
Máy bàn: 0286.6831.025

Công dụng chữa bệnh không ngờ từ lá mơ lông

Lá mơ lông là một loại rau gia vị ăn kèm khá phổ biến, thường được dùng để ăn kèm với các món ăn nhiều đạm như: thịt chó, gỏi cá, nem thính… Lá mơ lông có màu khá đẹp, một mặt lá màu tía, 1 mặt màu xanh, có rất nhiều lông nhỏ trên các gân lá. Đây không chỉ là 1 loại rau ăn kèm mà còn là vị thuốc hay có sẵn trong vườn nhà và có công dụng rất tốt với nhiều loại bệnh khác nhau.

Trong y học cổ truyền, lá mơ lông thường được sử dụng để tăng cường sức khỏe tiêu hóa, điều trị các bệnh liên quan tới tiêu hóa, đặc biệt là bệnh viêm đại tràng mạn tính.

Bệnh khớp tại người già

Người già thường bị phong thấp, đau nhức, nhức mỏi khi đánh tráo thời tiết. Có 3 cách từ lá mơ lông có thể giúp giảm đau hiệu quả.

Cách 1: Lá mơ lông sắc lấy nước uống, có thể lấy cả thân lá cây đều được.

Cách 2: Giã dập lá mơ lông rồi cho vào tách, đổ nước sôi, hãm như trà. Sau đó, rót nước ra 1 cái cốc và cho thêm rượu về để uống. Rượu có tác dụng dẫn thuốc chạy khắp cơ thể giúp giảm đau nhanh hơn. Cách 3: Băm nhỏ cả cây gồm thân và lá mơ lông, sau đó phơi khô, băm nhỏ. 1kg lá mơ lông khô ngâm với 2 lít rượu, ngâm trong 10 ngày là uống được. Rượu này có thể trong uống ngoài xoa. Mỗi ngày uống 1 đến 2 ly.

Sôi bụng, ăn khó tiêu:

Lấy một nắm lá mơ tươi, rửa sạch, ăn kèm với cơm như rau hoặc giã nát lấy nước uống. Ăn, uống liền trong hai - 3 ngày sẽ có kết quả.

Co giật

Nghiền nát khoảng 15 - 60g lá tươi, thêm 1 bát nước ấm và một tí muối, khuấy đều và vắt lọc để lấy nước và uống trước bữa tối.

Làm lành vết thương

Một nắm lá mơ lông xay thật mịn và đắp về vết thương. Chữa thấp khớp, bí tiểu: Lấy khoảng 15 - 60g lá tươi, đun sôi trong nước, gạn bỏ xác lá và uống nước, ngày uống một lần.

Bài thuốc trị huyết áp thấp

Huyết áp là áp lực của máu về thành mạch máu. Qua tổng kết của các nhà khoa học y học quy định lúc tim bóp là huyết áp tối đa (thì tâm thu), khi tim giãn (thì tâm trương) là huyết áp tối thiểu. Gọi huyết áp thấp khi có chỉ số đo huyết áp tối đa dưới 90, huyết áp tối thiểu dưới 70mmHg.

Đông y khám bệnh qua 4 bước (gọi là tứ chẩn).

Vọng là nhìn thần sắc và hình dáng người bệnh: người thấp huyết áp thường da xanh, dáng mệt mỏi, lưỡi nhiệt, môi nhợt.

Văn là nghe ngửi: tiếng nói người bệnh nhỏ, yếu, hơi thở bình thường hoặc hôi.

Vấn là hỏi bệnh: Người bệnh đổi tư thế dễ chóng mặt hoa mắt; Đau lưng cổ gáy, sợ lạnh, dễ ra mồ hôi; Có thể hồi hộp, mất ngủ, có thể sa trực tràng, sa tử cung.

Thiết là sờ: sờ da thường lạnh ẩm. Sờ mạch: mạch trầm nhược, hay trầm tế.

Đông y chia chứng bệnh này làm 4 thể. Tùy từng thể bệnh mà dùng bài thuốc phù hợp như sau:

Tỳ khí hư

Biểu hiện: Ăn uống kém, cơ nhẽo, chân tay lạnh, đại một thể lỏng, mạch trầm

Bài thuốc: cát lâm sâm 12g, mạch môn 12g, hoàng kỳ 20g, phá cổ chi 12g, bạch linh 16g, nhục đậu 8g, bạch truật 16g, hoài sơn 16g, mộc hương 12g, cam thảo 6g, sa nhân 12g, nhục quế 8g. Sắc uống.Khám bệnh, kê đơn cho người huyết áp thấp.

Khám bệnh, kê đơn cho người huyết áp thấp.

Tâm tỳ khí hư

Biểu hiện: Người bệnh có biểu hiện: hồi hộp, ngủ mê, ăn kém, người mệt mỏi, ngại hoạt động, đổi tư thế dễ chóng mặt, có thể sa trực tràng, tử cung, mạch trầm nhược.

Bài thuốc: hoàng kỳ 20g, quế chi 12g, bạch truật 16g, bạch thược 12g, can khương 8, táo nhân 12g, nhục quế 8g, bá tử nhân 12g, đương quy 12g, cam thảo 6g, đẳng sâm 16g. Sắc uống.

Tỳ thận dương hư

Biểu hiện: Váng đầu, ù tai, ngủ kém. Đau mỏi lưng gối chân tay lạnh, sợ lạnh, di tinh, tiểu đêm, lưỡi nhợt, mạch trầm nhược.

Bài thuốc: nhân sâm 12g, liên thục 20g, hà thủ ô 20g, bạch linh 6g, đại táo 16g, bạch truật 16g, bá tử nhân 8g, bạch thược 12g, kỷ tử 12g, sinh khương 3 lát, táo nhân 10g. Sắc uống ngày một thang

Khí âm lưỡng hư

Biểu hiện: Đau đầu, chóng mặt, họng khô khát, mạch tế sắc

Bài thuốc: Sinh mạch tán: nhân sâm 12g, hoàng kỳ 16g, mạch môn 12g, đương quy 12g, ngũ vị 8g, kỷ tử 12g, hoàng tinh 16g, nhục quế 8g. Sắc uống ngày một thang.

Chú ý: Khi huyết áp quá thấp, mạch nhanh nhỏ khó thấy. Huyết áp tối đa dưới 60mmHg là tình trạng trụy mạch phải phối hợp cấp cứu theo Y học hiện đại, Đông dược có thể thêm nhân sâm, phụ tử chế.

PGS.TS. Dương Trọng Hiếu

Món ăn

Một trong các nguyên nhân dẫn tới ung thư là do ăn uống. Mặt khác đồ ăn, thức uống (thực phẩm) cũng là thuốc với quan niệm “y thực đồng nguyên”. Do vậy để dự phòng bệnh ung thư, ăn uống có vai trò rất quan trọng.

Các món ăn phối hợp giữa các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng, với các vị thuốc y học cổ truyền có tác dụng bồi bổ cơ thể, tăng sức đề kháng, chống lại bệnh tật là cách bộ phận ung thư rất tốt. Dưới đây là những món ăn bài thuốc có tác dụng bộ phận ung thư. Tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể mà áp dụng.

Trà hoa cúc, sơn tra: Sơn tra 10g, bông cúc trắng 9g. Sơn tra, hoa cúc sử dụng nước sạch rửa hoặc sử dụng nước sôi ngâm 5 phút bỏ nước, tiếp tục chế nước sôi về pha thành trà. Dùng như trà, mỗi ngày 1 lần. Tác dụng: Phòng và ức chế bệnh ung thư. Dùng cho người mắc bệnh ung thư.

Cơm nấm hương, đậu hũ: Phục linh 10g, gạo tẻ 9g, nấm hương khô 10 tai, đậu hũ chiên dầu 3 miếng, cà rốt, bầu một lượng thích hợp, nước tương, muối một lượng thích hợp. Phục linh rửa sạch, nấu 30 phút lọc lấy nước cốt để sẵn. Nấm hương và đậu hũ chiên dầu xắt thành sợi. Bỏ đậu hũ chiên dầu và nấm hương đã xắt vào chảo xào sơ, nêm gia vị vừa ăn và cho thêm ít phối liệu về như cà rốt hoặc đậu bo. Sau đó đổ nước cốt phục linh vào. Bỏ gạo đã vo sạch vào, thêm nước vừa phải, hấp khoảng 30 phút là chín. Ăn như món ăn chính. Tác dụng: Bổ tỳ, ích khí, ngừa ung thư. Dùng cho người mắc bệnh ung bướu, khí hư.

Cháo bo bo, hạt sen: Bo bo (ý dĩ) 100g (2 lượng), gạo tẻ 100g, hạt sen 20-30g. Một chút đường phèn hoặc đường cát trắng. Bo bo vo sạch, gạo vo sạch, hạt sen bóc vỏ bỏ tim sen. Hạt sen, bo bo bỏ về nồi cho nước vừa phải nấu tới khi gần chín, đổ gạo đã vo sạch về nấu tiếp đến lúc gạo chín thành cháo. Nêm ít đường phèn hoặc đường cát trắng. Ăn vào buổi sáng và buổi tối. Tác dụng kiện tỳ bổ phổi, thanh nhiệt kháng virut, phòng ung thư. Phòng ngừa ung thư, hoặc sử dụng cho người mắc bệnh ung thư.

Dưa chuột ngâm giấm đường: Dưa chuột 500g, đường trắng 50g, giấm trắng 30g, dầu mè 5g, gừng một củ. Lấy 1 cái tô, cho đường trắng, giấm, thêm khoảng 20g nước sôi vào để đường tan, gừng rửa sạch, bỏ vỏ, xắt thành sợi, bỏ vào nước giấm đường. Dưa chuột rửa sạch, cắt bỏ cuống, sau đó cắt khoanh tròn khoảng 1cm, cạo bỏ ruột, rửa sạch để ráo. Sau đó bỏ về trong tô nước giấm gừng, ngâm khoảng 30 phút. Vớt ra đĩa tưới dầu mè lên. Ăn vào các bữa cơm. Có tác dụng kháng ung thư. Phòng ngừa các chứng ung thư.

Canh hạt sen, nhân sâm: Hạt sen 100g, bạch sâm 20g, đường phèn 60g. Cho hạt sen khô về nồi nấu khoảng 30 phút, bỏ vào một ít vôi nấu tiếp 30 phút, vừa nấu vừa đảo đều, tạo ma sát lớp vỏ ngoài của hạt sen tróc ra. Đổ sen về thau dội nước rửa 2 lần, bỏ nước có xút không dùng, bỏ hết vỏ sen. Nấu lại sen sôi 5-10 phút, bỏ nước lấy hạt.

Bạch sâm sau lúc rửa sạch bỏ về tô đựng canh cùng với hạt sen đã sơ chế, cho thêm một ít nước và đường phèn. Chưng cách thủy một giờ cho tới lúc mềm thì lấy ra. Ăn sen uống nước, bạch sâm và hạt sen còn lại nấu 3 lần như thế, lần sau cùng ăn cả cái lẫn nước. Tác dụng đại bổ nguyên khí, bổ dưỡng tinh thần. Phòng ngừa bệnh ung thư hoặc dùng cho người bệnh ung thư cơ thể suy yếu, mệt mỏi, ốm yếu, đổ mồ hôi trộm.

Canh ba ba, câu kỷ: Ba ba 1 con, hạt nữ trinh 30g, hạt câu kỷ 30g, sơn chu du 30g. Hành, gừng, bột ngọt, muối lượng thích hợp. Ba ba bỏ đầu và nội tạng, sau lúc rửa sạch sẽ cho vào nồi đất. Hạt nữ trinh, hạt câu kỷ, sơn chu du rửa sạch bỏ về túi vải thưa cột chặt miệng lại. Hành cắt đoạn, gừng xắt miếng. Đổ một lượng nước vừa phải vào nồi đất, bỏ túi thuốc trên cùng với hành, gừng, ít muối về nồi, sử dụng lửa lớn nấu sôi sau đó dùng lửa nhỏ cho đến khi ba ba chín mềm thì vớt túi thuốc ra. Nêm tý bột ngọt vừa ăn là được. Ăn thịt ba ba, uống canh. Tác dụng bồi bổ can thận, bộ phận ung thư, hoặc sử dụng bổ trợ cho việc trị ung thư gan, ung thư bàng quang.

Nước uống song hoa: Hoa kim ngân 50g, hoa cúc 50g, sơn tra 50g, mật ong nguyên chất 50g. Lựa sạch hoa kim ngân, hoa cúc, sơn tra cho về nồi, đổ nước sạch về nồi dùng lửa nhỏ nấu sôi 30 phút, nhắc nồi xuống, lọc nước cốt để sẵn. Sau đó, đổ mật ong về nồi sạch, sử dụng lửa nhỏ đun vừa sôi, dùng muỗng thử thành sợi tơ là được. Đổ mật ong vừa nấu từ từ vào nước cốt, quấy đều cho đến lúc tất cả mật ong tan về nước cốt. Dùng vải thưa hai lớp lọc bỏ cặn, đợi nguội là xong. Uống bất cứ lúc nào. Tác dụng thanh nhiệt, giải thử, kiện tỳ, phòng ung thư.

Canh ngọc hợp, táo tây (bôm): Ngọc trúc 30g, bách hợp 30g, táo mật 5 trái, trần bì 1 nhúm, bôm lớn (táo tây) 3 trái, thịt heo 250g. Ngọc trúc, bạch hợp, táo mật, trần bì sử dụng nước rửa sạch, bôm bỏ cuống xắt cục nhỏ. Cho toàn bộ vào nồi đất, đổ khoảng nửa nồi nước, lúc nấu sôi bỏ thịt heo đã xắt miếng vào, sử dụng lửa vừa nấu khoảng 2 tiếng, nêm gia vị vừa ăn là được. Ăn thịt uống canh. Tác dụng bổ âm nhuận táo, điều hòa ngũ tạng, thanh tâm hỏa, ngừa ho, an thần. Người ung thư phổi nên dùng.

Lương y. Vũ Quốc Trung

Rong biển làm thuốc

Tảo biển chứa đa dạng các thành phần dinh dưỡng như giàu iod, acid alginic, alginat, chất béo, chất đường, calci, phospho nên được sử dụng làm thực phẩm và làm thuốc.

Bộ phận sử dụng là toàn cây khô của 1 số loài tảo biển. Dược liệu sau lúc lấy rửa bằng nước ngọt để loại muối và tạp chất; phơi hay sấy khô ở nhiệt độ thấp.

Vị đắng mặn, tính hàn; về tỳ, can, thận, rong biển có tác dụng nhuyễn kiên tán kết, hoá đàm, lợi thủy tiết nhiệt. Trị viêm sưng hạch, lao hạch, bướu cổ, nấc, phù nề, viêm tràn dịch mào tinh hoàn. Liều dùng: 6 - 10g bằng cách nấu hầm, xào, pha hãm hoặc kết hợp thuốc khác.

Chữa lao hạch cổ:

Bài 1: tảo biển 12g, tằm vôi 6g. Sao chung, nghiền thành bột mịn. Dùng nước sắc bạch mai để làm hoàn. Chia uống hai lần.

Bài 2: tảo biển 9g, thổ bối mẫu 9g, hương phụ 9g, hạ khô thảo 9g. Sắc uống.

Chữa phì đại tuyến tiền liệt gây bí đái tại người già: tảo biển 10g, xuyên sơn giáp 10g, lệ chi hạch 15g, quất hạch 15g, vương bất lưu hành 15g. Sắc uống.

Chữa lở ngứa ngoài da: tảo biển 16g, liên kiều 12g, ngưu bàng 8g, hạ khô thảo 8g, nga truật 8g, tam lăng 4g, trần bì 2g, bán hạ 2g. Sắc uống chia 2 lần trong ngày.

Món ăn thuốc có rong biển

Canh thịt nấu rong biển: tảo biển 300g, thịt lợn 100g (hoặc đậu phụ 200g). Thịt lợn băm nhỏ; rong biển đem ngâm nước gạo một đêm để khử mặn, rửa sạch, nấu chín tái, cắt đoạn, nấu tiếp cho chín nhừ, thêm thịt băm, dấm, gia vị và hành tươi. Dùng cho các trường hợp viêm tinh hoàn, sưng hạch, nấc cục, bướu cổ lành tính.

Vịt hầm rong biển: rong biển 120g, vịt một con. Rong biển ngâm rửa, luộc qua, cắt đoạn; vịt làm sạch, chặt miếng, thêm gia vị hầm nhừ. Một tuần ăn 2 lần. Dùng tốt cho người bướu giáp trạng lành tính (bướu cổ do thiếu iode).

Canh rong biển ý dĩ: rong biển 30g, ý dĩ 30g, trứng gà 3 cái. Rong biển ngâm, luộc, thái lát; ý dĩ nấu chín nhừ để sẵn. Cho dầu về chảo, đun nóng, đập trứng gà vào, khuấy cho chín, cho canh rong biển ý dĩ vào, thêm gia vị thích hợp. Dùng tốt cho người nâng cao huyết áp, đau tức vùng ngực, người bệnh u bướu.

Rong biển hầm đậu phụ: rong biển 30g, đậu phụ 100g. Rong biển làm như trên, đậu phụ thái miếng; thêm gừng tươi đập giập và gia vị, dầu rán, hầm cách thủy. Ngày ăn 1 lần, liên tục 15 ngày. Dùng rất tốt cho người viêm xương hạch và đau khớp ở thanh thiếu niên.

Rong biển hầm củ cải: rong biển 300g, củ cải trắng 250g, thanh quả (quả trám) 50g. Củ cải thái lát, thêm gia vị cùng với trám nấu nhừ. Ăn ngày 1 lần, thường xuyên 7 - 10 ngày. Dùng tốt cho người viêm họng khô, viêm khí phế quản (thể viêm khô mạn tính, ho ít đờm, khi lạnh ẩm viêm họng, ho, đờm nhiều).

Rượu tảo biển: tảo biển 500g thái vụn, ngâm trong 1.000ml rượu, để sau 1 tháng lấy bỏ bã, chia 2 lần sáng, chiều; uống mỗi lần 20 - 30ml. Dùng rất tốt cho người viêm sưng hạch bạch huyết.

Kiêng kỵ: Người tỳ vị hư hàn sử dụng thận trọng.

BS. Tiểu Lan

Bài thuốc trị bệnh phát sinh từ chứng thủy ẩm

Thủy ẩm thường tích tụ tại ngực, bụng, vị (dạ dày), trường (ruột), tay chân và trong các bộ vị khác nhau của cơ thể. Gây ra chứng này là do dương khí hư, âm khí bế tắc không vận chuyển được thủy dịch. Sự khí hóa không đầy đủ, đàm ẩm ứ đọng lại mà sinh bệnh. Biểu hiện trong vị có tiếng nước óc ách, suyễn thở đoản hơi, nôn hoặc buồn nôn. Sau lưng có vùng lạnh bằng bàn tay, hay chóng mặt, hoa mắt, có khi mặt hơi phù, ngủ nhiều, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch trầm huyền.

Một số bài thuốc dưới đây giúp trị các chứng bệnh phát sinh từ chứng thủy ẩm để bạn đọc tham khảo:

Chứng đàm ẩm

Triệu chứng: Người bệnh vốn béo mập, bỗng nhiên sút cân, bụng trướng đầy mà đau, trong vị tràng có tiếng nước ọc ạch khó chịu, miệng khô, lưỡi ráo, mặt và mắt phù nhẹ, đại nhân tiện táo kết, tiểu luôn tiện vàng sẻn, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hoạt sác.

Điều trị: Tiêu thủy ẩm lợi tiểu.

Bài thuốc: “Kỷ tiêu lịch hoàng gia giảm”. Phòng kỷ 12g, tiêu mục 12g, đình lịch tử 12g, đại hoàng 8g. Nếu ăn kém gia bạch truật 12g, tiểu luôn thể ít mà vàng gia trạch tả 8g, bạch thược 8g…

Cách dùng: Ngày uống một thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống khi đói. Phòng bệnh: Ăn đúng bữa, không ăn các thức ăn hàn lạnh, nếu không khát thì không uống nước, nếu như khát không uống nhiều nước một lúc mà uống ít một.

Bài thuốc trị bệnh phát sinh từ chứng thủy ẩmVị thuốc phòng kỷ.

Chứng huyền ẩm

Triệu chứng: Bệnh nhân ho, đau hai bên mạn sườn, mỗi lúc thở, ho, hoặc cử động thì đau tăng lên, đoản hơi, thở gấp, rêu lưỡi trắng, mạch trầm huyền. Điều trị: Công trục thủy ẩm.

Bài thuốc: “Thập tảo thang”. Đại kích 12g, cam toại 12g, nguyên hoa 12g, đại táo 12 quả, tùy chứng trạng của bệnh nhân có thể gia giảm cho thích hợp với chứng bệnh.

Cách dùng: Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn.

Chứng chí ẩm

Triệu chứng: Bệnh nhân ho nhiều khí nghịch lên, phải ngồi tựa mà thở, đờm nhiều bọt trắng, người phù nhẹ, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch huyền khẩn.

Điều trị: Ôn phế hóa đờm ẩm.

Bài thuốc: “Tiểu thanh long thang”. Ma hoàng 12g, bạch thược 12g, quế chi 12g, bán hạ (chế) 16g, can khương 8g, ngũ vị tử 8g, tế tân 6g, cam thảo 6g. Tùy chứng trạng của bệnh nhân mà gia giảm cho thích hợp.

Cách dùng: Ngày uống một thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước lúc ăn.

Bài thuốc trị bệnh phát sinh từ chứng thủy ẩmHạt đình lịch tử.

Chứng ẩm tà ứ đọng dưới tâm (nước ngoài màng tim)

Triệu chứng: Bệnh nhân hoa mắt chóng mặt buồn nôn, ho khan khí nghịch, dưới tâm có thủy dịch, ngực sườn đau tắc nghẹn và đầy, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch huyền hoạt.

Điều trị: Kiện tỳ hóa ẩm làm hưng phấn trung dương.

Bài thuốc: “Linh quế truật cam thang”. Phục linh 16g, quế chi 12g, bạch truật 16g, cam thảo 18g, Gia: Trạch tả 20g.

Cách dùng: Ngày uống 1 thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống sau khi ăn.

Chứng dật ẩm

Triệu chứng: Bệnh nhân tay chân phù nhẹ, mồ hôi không ra được, toàn thân đau nhức nặng nề lúc ẩm tà đang ở biểu. Nếu hàn tà vào lý ẩm thịnh thì bệnh nhân sốt cao mà sợ lạnh, ho suyễn đờm nhiều có bọt trắng.

Điều trị: Phát hãn giải biểu.

Bài thuốc: “Tiểu thanh long thang gia giảm”. Ma hoàng 24g, hạnh nhân 10g, thạch cao 30g, sinh khương 12g, quế chi 8g, đại táo 12g, cam thảo 6g.

Cách dùng: Ngày uống 1 thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống sau lúc ăn lúc thuốc còn ấm.

TTND.BS. Nguyễn Xuân Hướng

An nam tử trị ho, khàn tiếng

Sau khi lấy hạt, ngâm nước nở to gấp 8-10 lần thể tích của hạt thành 1 chất nhày màu nâu nhạt trong, vị hơi chát và mát. Vì vậy ở miền Nam hay sử dụng làm thuốc uống giải khát. Gốc cuống lá và vỏ trong của hạt, ngâm nước cho chất nhày đa số nên hạt thường được ngâm nước cho đường vào làm thạch để giải khát. Lá non nấu canh ăn được. Chất nhày của hạt sử dụng làm thuốc trị các chứng bệnh đường tiêu hóa.

Cây lười ươi cho vị thuốc an nam tử (bàng đại hải).

Cây lười ươi cho vị thuốc an nam tử (bàng đại hải).

Dùng làm thuốc, người ta hái quả chín nứt ở cây lấy hạt phơi khô dùng dần. Hạt an nam tử có hình bầu dục trông như quả trám. Bề mặt màu nâu tối hoặc màu nâu vàng sẫm, có vân nhẵn không đồng đều. Theo Đông y, an nam tử tính hàn, vị ngọt, lợi về kinh phế, đại tràng có công dụng thanh nhiệt, nhuận phổi, lợi hầu, giải độc, trị ho khan, không có đờm, đau họng, khản tiếng, cốt chưng (người bệnh sốt nhẹ về chiều, đổ mồ hôi trộm...). Dưới đây là những bài thuốc thường dùng:

Trị ho khan, mất tiếng, họng nóng rát, viêm đau lợi: An nam tử 5 hạt, cam thảo 3g. Sắc uống thay trà. Nếu người già hoặc trẻ em uống có thể cho thêm ít đường phèn.

Trị đau họng, ho khan không có đờm, khàn tiếng, cốt chưng nội nhiệt, chảy máu cam: An nam tử 3 hạt, mật ong 15ml. Hãm với nước sôi uống thay trà.

Trị chảy máu cam tại trẻ nhỏ: An nam tử 2-5 hạt, sao vàng, nấu lấy nước cho trẻ uống trong ngày.

Trị viêm họng, viêm amidan cấp tính: An nam tử 5g, bản lam căn 5g, mạch môn đông 5g, cam thảo 3g. Hãm với nước sôi, uống nhiều lần thay trà.

Hoặc sử dụng bài: An nam tử 5g, bồ công anh 4g, hoa kim ngân (khô) 16g, bạc hà 2g, cam thảo 1g. Rửa sạch, hãm nước sôi, uống thay hàng ngày.

Chú ý: An nam tử chỉ dùng mỗi ngày từ 2-5 hạt, không dùng kéo dài.

DS. Hồng Hải

Thuốc từ quả bầu

Thịt quả bầu vị ngọt, tính hàn, có tác dụng giải nhiệt, trừ độc, mát máu, chữa đái dắt, tiêu sỏi, trừ thủy thũng phù nề, mụn nhọt, tiêu khát (đái tháo đường) tiêu các loại viêm nhiệt ở phổi gây ho, tiêu chảy, tắc mật gây vàng da, tinh hoàn sưng đau... Lá vị ngọt, tính bình; hoa và tua cuốn có tác dụng tắm cho trẻ ngừa bệnh ngoài da (rôm sảy, sởi, mụn nhọt...). Hạt chữa răng đau lung lay, tụt lợi. Lá bầu gói thịt chó để nấu nướng, làm dịu bớt tính nóng của thịt chó.

Quả bầu là món ăn thông dụng trong ngày hè, cũng là vị thuốc bộ phận trị nhiều bệnh.

Bầu được sử dụng làm thuốc chữa các bệnh:

Đái dắt: quả bầu 50g, rau má 30g, râu ngô 10g, rễ cỏ tranh 20g. Sắc nước uống.

Bí tiểu tiện: quả bầu 200g, hành củ 5 củ cả lá rễ. Sắc nước uống.

Chữa phù thũng: sử dụng cả quả (vỏ thịt, hạt) sắc với dấm chua lấy nước uống.

Cổ trướng (báng nước): bầu tươi 50-100g đun nước uống. Hoặc phối hợp với vỏ bầu, vỏ bí đỏ, vỏ dưa hấu, vỏ mướp, nấu nước uống.

Viêm gan vàng da - sỏi thận - nâng cao huyết áp: bầu tươi 500g, giã nhuyễn, vắt nước trộn với 250g mật ong. Ngày uống hai lần. Mỗi lần 30-50ml.

Chữa táo bón: quả bầu 50g, khoai lang 50g, đường đỏ 30g. Nấu nước uống 3 lần trong ngày. Nếu không đỡ uống liền 5 ngày.

Trị mụn nhọt tái phát hàng năm về mùa hè tại trẻ em: trái bầu non nấu canh thịt heo nạc với lát gừng, cho trẻ ăn.

Sưng bìu dái căng bóng: trái bầu tươi nấu nước uống, ngậm rửa.

Thủy thũng phù cả mắt cá chân: vỏ quả bầu mới, sao tán bột. Ngày uống 8-10g với nước sắc trần bì lúc đói.

Tiêu chảy ra nước (nhiệt tả): vỏ bầu một nắm sao vàng sắc uống.

Đầy bụng không tiêu: vỏ bầu khô hầm trong nồi kín cho thành than tán mịn. Mỗi lần lấy 1 thìa lớn uống với nước ấm. Cho vài lát gừng càng tốt.

Đái tháo đường: vỏ bầu già khô nấu nước hoặc nướng giòn tán bột để uống.

Phế nhiệt sinh ho: bầu 50g, đun nước uống thay trà trong ngày.

Rong huyết sau đẻ: vỏ bầu già khô (lấy mảnh vỡ cũng được) đập nát đốt thành than tán bột. Uống với nước.

Bệnh ngoài da (lở ngứa, rôm sẩy), phòng sởi đậu tại trẻ em: dùng tua cuốn dây bầu nấu với nước để tắm rửa.

Giải thai độc: dùng tua cuốn và hoa bầu nấu nước uống.

Bổ thận chữa đau lưng: hạt bầu nấu canh bầu dục lợn để ăn cái uống nước.

Viêm lợi miệng, tụt lợi, răng lung lay, sưng mộng răng: hạt bầu 30g, đun nước ngậm, súc miệng.

Sản phụ thiếu sữa: hạt bầu bỏ vỏ sao vàng 40g, đậu đỏ 100g, gạo nếp 100g, nấu cháo ăn hàng ngày. Có thể hầm cùng móng giò lợn.

BS. Phó Thuần Hương

Trị nước ăn chân bằng thuốc nam

Mỗi lúc mưa lớn, lũ về, ngoài việc thiệt hại về người và tài sản, lũ còn gây nhiều bệnh tật cho người dân vùng lũ... Trong đó nước ăn chân cũng là bệnh rất thường gặp và gây gần như phiền hà cho người dân vùng lũ. Nếu để nước ăn chân nhiều ngày, các kẽ chân bị loét sâu, có nguy cơ nhiễm khuẩn... Do vậy, nước ăn chân cũng được coi như một bệnh thường trực của những người dân vùng lũ, cần phải xử lý kịp thời.

Những vị thuốc và bài thuốc trị nước ăn chân có hiệu quả

Trước hết cần phải rửa thật sạch nơi bị bệnh bằng nước sạch hoặc dùng nước muối ăn, pha loãng, rửa ấm, cũng có thể sử dụng nước sắc của cây bạc hà hoặc củ gừng tươi, rửa ấm, lau khô; rồi tiến hành sử dụng một số các vị thuốc, bài thuốc sẵn có để chữa trị.

Rau sam tươi lấy phần cây trên mặt đất, khoảng 50-100g tươi, rửa sạch, để ráo nước, cắt nhỏ, giã nát, thêm chút muối ăn, trộn đều, rồi cho tất cả về mảnh vải gạc sạch, chấm nhẹ vào nơi tổn thương, khô lại chấm. Làm nhiều lần, chỗ loét khô se lại và hết ngứa. Mỗi ngày làm một lần như vậy, sẽ cho kết quả tốt.

Hàn the.

Hàn the.

Cóc mẳn: Cây cóc mẳn hay còn gọi là cúc mẳn. Lấy phần cây trên mặt đất, khoảng 50g, rửa sạch, cắt nhỏ... rồi cũng làm như vị rau sam. Cũng có thể sau lúc chấm hết dịch thì lấy ngay bã của thuốc nhét về các kẽ chân, cần yếu thì băng lại cho miếng thuốc khỏi bị rơi. Mỗi ngày làm 1 lần như vậy, sẽ cho kết quả tốt.

Búp ổi: Dùng búp cây ổi tươi, khoảng 50g, cách làm tương tự như các vị thuốc trên.

Bài thuốc sinh cơ tán: Bạch phàn (còn gọi là phèn chua), bằng sa (hàn the), berberin đồng lượng. Đem phèn chua và hàn the cho vào chảo gang nung lên cho bay hết hơi nước, sẽ trắng và xốp ra. Đem tán thành bột mịn trộn với bột berberin, đóng lọ kín dùng dần.

Cách dùng: Trước hết cũng được rửa sạch nơi bị nước ăn, như trên, lau khô. Lấy ít bột trên ra một mảnh giấy sạch hoặc 1 cái chén sạch, rồi lấy tăm bông chấm về bột này rồi bôi đều về nơi bị nước ăn chân. Ngày bôi nhiều lần. Với hỗn hợp bột này sẽ làm cho chỗ bị nước ăn hết ngứa, da nhanh khô, tổ chức cơ dưới da nhanh chóng nhất được hồi phục và chỗ loét nhanh lành. Hoặc có thể sử dụng riêng phèn phi, hoặc berberin, tán mịn rắc về nơi tổn thương cũng có kết quả.

GS.TS. Phạm Xuân Sinh

Trị liệu chứng trúng thử

Nếu nặng thì thanh khiếu bị che phủ, kinh khí bế tắc gây nên hôn mê, nếu như tân dịch bị hao tổn quá nhiều thì phát sinh chứng hư thoát.

Huyệt nhân trung có tác dụng khai khiếu (thức tỉnh) và tiết nhiệt.

Huyệt nhân trung có tác dụng khai khiếu (thức tỉnh) và tiết nhiệt.

Chứng trúng thử biểu hiện tại hai mức độ: Nhẹ thì đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, tức ngực, lợm giọng, buồn nôn, khát nước, da nóng, không có mồ hôi, toàn thân mệt mỏi rã rời hoặc có biểu hiện bồn chồn, vật vã; Nặng thì ngoài các triệu chứng trên còn có thêm sắc mặt nhợt nhạt, vã mồ hôi, chân lạnh, thậm chí xuất hiện hôn mê bất tỉnh, co giật tứ chi.

Về mặt trị liệu, lúc gặp tình trạng này phải hết sức nhanh chóng nhất tiến hành các biện pháp sau đây:

- Khẩn trương cởi bỏ và nới rộng quần áo, cho uống một ít nước muối nhạt hoặc nước chín mát, sử dụng khăn thấm ướt nước lạnh hoặc rượu trắng lau các hốc tự nhiên như hõm nách, bẹn...

- Nếu nặng, bất tỉnh nhân sự thì ngay thức thì dùng ngón tay cái lần lượt bấm mạnh huyệt nhân trung và thập tuyên. Vị trí huyệt nhân trung: tại điểm nối 1/3 trên với 2/3 dưới của rãnh nhân trung, giữa đáy rãnh. Vị trí huyệt thập tuyên: tại đỉnh cao nhất giữa 10 đầu ngón tay. Bấm các huyệt này có tác dụng khai khiếu (làm thức tỉnh) và tiết nhiệt (thải nhiệt, giải nhiệt). Sách Châm cứu khổng huyệt cập kỳ liệu pháp nhân tiện lãm đã viết: “Thập tuyên là kỳ huyệt... sử dụng kim tam lăng hoặc kim to châm ra máu chủ trị toàn bộ các chứng mất thần cấp tính”.

Day huyệt đại chuỳ là nơi hội tụ dương khí.

Day huyệt đại chuỳ là nơi hội tụ dương khí.

- Dùng gốc bàn tay day lòng bàn tay, lòng bàn chân và chỗ hõm giữa thắt lưng của người bệnh (có thể dùng một ít rượu trắng để xoa) sao cho tại chỗ nóng lên là được. Trong tư thế bệnh nhân nằm sấp, xác định và day mạnh huyệt đại chùy nằm tại ngay dưới chỗ lồi to của ụ xương cổ thứ 7. Sau đó huyệt này có tác dụng thanh nhiệt và thông dương khí. Kinh nghiệm của cổ nhân thường phối hợp kích thích thập tuyên với đại chùy để trị sốt cao và chống say nắng.

- Nếu bệnh nhân đã tỉnh nhưng còn mệt thì dùng tay xoa, day và vê các ngón chân của người bệnh. Điều này rất có lợi vì như vậy tác động tới các huyệt vị như ẩn bạch, chí âm, hành gian, thái xung, đại đôn, lệ đoài, túc khiếu âm. Kế đó, dùng ngón tay cái nhẹ nhàng day huyệt thái dương và dọc theo hai lông mày với 1 lực vừa phải.

Ngoài ra, theo kinh nghiệm dân gian, người ta còn có thể chọn dùng một trong các biện pháp kích thích hồi tỉnh như: sử dụng lá hẹ tươi hoặc nga bất thực thảo tươi hoặc gừng tươi hoặc tỏi tươi, rửa sạch, giã nát, ép lấy nước để nhỏ về lỗ mũi; dùng trầm hương và đàn hương đốt khói xông 2 lỗ mũi... Khi bệnh nhân tỉnh cần được nghỉ ngơi, có thể cho uống nước sắc lá sen, lá hoắc hương hoặc lá hương nhu tươi.

Vị trí huyệtẨn bạch: tại mé trong ngón chân cái, cách góc móng chân 0,1 tấc vào phía sau.Chí âm: tại mé ngoài đầu ngón chân út, cách góc móng khoảng 0,1 tấc về phía sau.Hành gian: cách mép kẽ ngón chân 1 và hai một khoảng 0,5 tấc.Thái xung: ở kẽ ngón chân 1 và 2, cách mép da hai tấc.Đại đôn: tại mé ngoài ngón chân cái, tại điểm giữa đường nối góc ngoài móng chân và khớp liên đốt ngón chân cái.Lệ đoài: ở phía ngoài góc ngoài móng chân ngón thứ 2, cách góc móng chân 0, một tấc vào phía sau.Túc khiếu âm: Bên ngoài ngón chân thứ 4, cách góc móng chân chừng 0,1 tấc vào phía sau.

BS. Thanh Trà

Món ăn, nước uống giúp đẩy lùi bệnh sởi

Giai đoạn 1: Bệnh nhân sốt, hắt hơi, sổ mũi nghẹt mũi, ho, mắt đỏ chảy nước mắt. Niêm mạc miệng và khoang miệng, hai gò má xuất hiện các mẩn màu trắng, viền ngoài hơi hồng.

Nước nấm hương: nấm hương 25g, bạc hà 2g. Nấm hương rửa sạch cho về nồi cùng 200ml nước đun sôi kỹ trong 2 - 3 phút, vớt bỏ nấm hương, cho bạc hà về đun tiếp, lúc sôi kỹ chắt lấy nước chia 3 lần uống trong ngày, chỉ uống trong 1 - hai ngày đầu khi mới mắc bệnh.

Người bệnh sởi nên ăn cháo hồng táo củ mài 4-5 ngày liền trong giai đoạn sởi bay.

Người bệnh sởi nên ăn cháo hồng táo củ mài 4-5 ngày liền trong giai đoạn sởi bay.

Nước rau mùi: rau mùi tươi 25g, để cả rễ rửa sạch cắt nhỏ cho vào nồi thêm 250ml nước, đun sôi kỹ 1 - 2 phút, chắt lấy nước chia 3 lần uống trong ngày, chỉ uống 1 - 2 ngày đầu lúc mới mắc bệnh.

Canh đậu phụ: đậu phụ một miếng khoảng 200g, rau mùi non 25g, dầu thực vật bột ngọt, bột gia vị vừa đủ. Đậu phụ cắt miếng nhỏ, rán bằng dầu thực vật cho vàng. Rau mùi rửa sạch cho về nồi, thêm 250ml nước sôi, đun nhỏ lửa, canh sôi cho đậu phụ, bột ngọt, bột gia vị vào đảo đều, canh sôi lại là được. Ăn ngày một lần khi đói, có thể ăn với cơm, chỉ ăn một - hai ngày đầu mới bị sởi.

Giai đoạn 2: Bệnh nhân sốt cao kéo dài, ho tăng, nặng tiếng, miệng khát, người khó tại trằn trọc, nổi các nốt mẩn nhỏ màu đỏ gồ cao hơn mặt da, sờ về thấy gợn ở đầu, trán, cổ, mặt. Mụn dày dần lên lan xuống ngực, bụng, chân tay, cuối giai đoạn sốt giảm.

Nước củ cải: củ cải 150g, đường phèn 15g. Củ cải rửa sạch ép lấy nước, cho đường phèn vào, hấp cách thủy cho chín và tan hết đường, để nguội chia hai lần uống trong ngày. Uống 1 - hai ngày liền.

Nước lê tươi: lê tươi 1 quả khoảng 200g, đường phèn 10g. Lê tươi rửa sạch cắt ở phần sắp núm thành 1 cái nắp, khoét bỏ một phần ruột quả, cho đường phèn vào đậy nắp lại, ghim chặt, hấp cách thủy. Khi lê chín đem ép lấy nước chia 3 lần uống trong ngày. Uống liền 2 - 3 ngày.

Nước cỏ tranh: rễ cỏ tranh 50g, vỏ mía xanh 100g. Rễ cỏ tranh nhặt kỹ rửa sạch, cắt nhỏ. Vỏ mía xanh rửa sạch cắt khúc. Cả hai cho về nồi, thêm 250ml nước đun sôi kỹ chắt lấy nước chia 3 lần uống trong ngày. Chỉ uống 1 - 2 ngày.

Nước cà rốt: cà rốt tươi 200g, rửa sạch, xay nhỏ cho về nồi thêm 250ml nước, đun nhỏ lửa cho sôi kỹ, ép nước chia 3 lần uống trong ngày. Uống liền 2 - 3 ngày.

Giai đoạn sởi bay: Các mụn mẩn lặn theo thứ tự từ đầu, mặt, cổ xuống đến chân tay, sốt giảm dần, bệnh nhân ho khan ít đờm, mặt da bong rụng như mạt cám, cơ thể thấy thoải mái, người bệnh khỏe dần trở lại.

Cháo hồng táo: hồng táo 5 quả, củ mài 25g, gạo tẻ 50g, đường phèn 15g. Hồng táo bỏ hạt, giã nhỏ cho vào nồi thêm 400ml nước đun sôi. Củ mài, gạo tẻ xay nhỏ, cho nước táo vào quấy đều nấu thành cháo, cháo chín cho đường phèn vào, quấy tan, cháo sôi lại là được. Ăn ngày 1 lần khi đói, ăn liền 4 - 5 ngày.

Cháo kê: kê hạt 50g, hạt sen cả tâm 30g, đường phèn 10g. Hạt kê bỏ vỏ cho về nồi thêm nước nấu thành cháo. Hạt sen bỏ vỏ xay thành bột mịn, khi cháo kê chín nhừ cho bột hạt sen, đường phèn về khuấy đều, cháo sôi lại là được. Ăn ngày 2 lần khi đói, ăn liền 3 - 4 ngày để phục hồi sức khỏe sau lúc sởi bay, giảm trằn trọc, khó ngủ.

Cháo cà rốt: cà rốt 50g, củ mài 25g, lá dâu non 10g, gạo tẻ 50g, đường phèn 15g. Cà rốt rửa sạch. Củ mài, gạo xay nhỏ cho vào nồi thêm nước nấu cháo. Lá dâu rửa sạch thái nhỏ, lúc cháo chín cho lá dâu, đường phèn về quấy đều, cháo sôi lại là được. Ăn ngày 2 lần lúc đói, ăn liền 4 - 5 ngày. Tác dụng: tiệt nọc sởi, loại trừ biến chứng ho kéo dài và đờm khò khè ở cổ.

Khi mắc bệnh sởi, nên ăn uống thanh đạm dễ tiêu hóa, giàu dinh dưỡng, ăn nhiều quả tươi, rau xanh. Đặc biệt cần uống đủ nước để góp phần lưu thông tuần hoàn huyết dịch, sởi mọc hết và bay nhanh, xuất hết độc tố của sởi. Không cho trẻ ra gió lạnh, tắm rửa bằng nước ấm tại nơi kín gió.

Lương y Đình Thuấn